Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

Bài 2: Cần xử lý triệt để những tồn tại làm chậm tiến độ về đích NTM

(Xây dựng) - Sau 7 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (NTM), Hải Phòng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn đó những tồn tại và khó khăn vướng mắc đã được các cấp ngành Hải Phòng chỉ ra, phân tích rõ nhằm rút kinh nghiệm để phong trào xây dựng nông thôn mới bảo đảm phát triển bền vững, hài hòa.


Một số địa phương mới quan tâm đến công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến đầu tư phát triển sản xuất nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân.

Còn nhiều hạn chế, tồn tại

Theo Báo cáo của cơ quan chức năng, sau một thời gian triển khai thực hiện chường trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM đã xuất hiện một số tồn tại và khó khăn cần được xử lý, giải quyết triệt để. Cụ thể: Công tác chỉ đạo, điều hành còn bộc lộ những hạn chế: Công tác tham mưu chỉ đạo của một số sở, ngành chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được phân công, chưa chủ động đề xuất các giải pháp khả thi để khắc phục yếu kém. Một số địa phương chưa đề cao vai trò, trách nhiệm trong thực hiện xây dựng NTM; thiếu sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện, nhất là huy động nguồn lực thực hiện chương trình; việc triển khai còn mang tính hình thức, thiếu giải pháp cụ thể, chưa gắn với thực tiễn; phong trào xây dựng NTM ở các địa phương không đồng đều.

Chất lượng các đề án, quy hoạch NTM chưa cao, chưa đồng đều. Quy hoạch ở một số xã chậm điều chỉnh, bổ sung gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững còn thiếu tính liên kết vùng.

Trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp còn thấp, chưa có nhiều sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh và khối lượng hàng hóa lớn. Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp còn kém bền vững, dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai, dịch bệnh, diễn biến bất lợi của thị trường trong và ngoài nước. Chất lượng, khả năng cạnh tranh, cũng như hiệu quả sản xuất của nhiều loại nông sản còn thấp, chưa cao. Đổi mới mô hình tổ chức sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn; các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất phát triển chậm, hiệu quả chưa ổn định; kinh tế hộ nhỏ lẻ, ruộng đất sản xuất manh mún. Công nghiệp ở một số huyện chậm phát triển, nhất là công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

Ô nhiễm môi trường nông thôn diễn biến phức tạp. Công tác tổ chức thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nông thôn chưa đồng bộ, công nghệ xử lý đơn giản, chưa có giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ cao để xử lý theo hướng xã hội hóa. Hệ thống thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt chưa được chú trọng thực hiện; đầu tư xây dựng các trạm trung chuyển rác ở các xã, các khu xử lý rác thải tập trung cấp huyện còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí đầu tư cũng như mặt bằng; chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất nông nghiệp và nước thải làng nghề. Nghĩa trang nhân dân được bố trí theo tập quán truyền thống, mang tính tự phát, thiếu tập trung.

Nhìn chung, đời sống của người dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Nếp sống văn minh, văn hóa mới trong nông thôn chuyển biến còn chậm; nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao ở khu vực nông thôn còn đơn điệu; xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa ở một số địa phương chưa thực chất. Còn có vụ việc tranh chấp khiếu kiện phức tạp về an ninh trật tự, chậm được giải quyết dứt điểm.

Tiến độ thực hiện xây dựng NTM còn chậm, một số chỉ tiêu chưa đạt so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, như: tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản giai đoạn 2011-2015 đạt thấp (tăng 2,91%/năm).

Một số cấp ủy, chính quyền địa phương lúng túng trong việc vận dụng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực vào xây dựng NTM (đóng góp trực tiếp của người dân mới chủ yếu cho làm đường giao thông thôn, xóm). Một số công trình đầu tư vượt nhu cầu và khả năng cân đối nguồn lực gây lãng phí đầu tư; phát sinh nợ đọng. Chưa tranh thủ được sự hỗ trợ, hợp tác của các tổ chức kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố hoặc các đơn vị kết nghĩa về kỹ thuật, tài chính cho Chương trình; công tác vận động doanh nghiệp, cộng đồng dân cư thành thị đóng góp, tặng các công trình phúc lợi tại nông thôn còn hạn chế. Tính đến hết tháng 31/01/2017, tổng nợ xây dựng cơ bản nông thôn mới của các địa phương phát sinh từ năm 2015 trở về trước còn 289.258 triệu đồng.

Nguyên nhân của những hạn chế

Với tinh thần nghiêm túc, quyết tâm phấn đấu đến năm 2020 có 100% số xã và 100% số huyện đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng NTM. Giữ vững kết quả, tiếp tục nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt được. Các cấp các ngành TP Hải Phòng đã phân tích rõ nguyên nhân của những hạn chế để đưa ra hướng khắc phục.

Theo đó, nguyên nhân khách quan được xác định là do: Bộ tiêu chí Quốc gia xây dựng NTM có những chỉ tiêu phải được hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương và cần có thời gian để tổ chức thực hiện mới đạt kết quả. Một số tiêu chí chưa phù hợp với thực tế như: chợ nông thôn, nhà văn hóa, nhà ở...

Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, chưa tương xứng vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp và nông thôn; công tác xã hội hóa thu hút vốn đầu tư thực hiện Chương trình xây dựng NTM gặp nhiều khó khăn.

Giai đoạn 2012-2013, các địa phương hụt thu ngân sách nên không bố trí được phần kinh phí đối ứng theo quy định, một số địa phương thực hiện công trình đầu tư vượt khả năng cân đối nguồn lực là nguyên nhân phát sinh nợ xây dựng cơ bản trong xây dựng NTM.

Nguyên nhân chủ quan là do: Một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về nội dung, ý nghĩa của Chương trình xây dựng NTM, nên cách thức tổ chức thực hiện còn chung chung, thiếu cụ thể. Công tác phối hợp giữa các Sở, ban, ngành thành phố và các địa phương trong việc tham mưu, đề xuất và tổ chức triển khai thực hiện chưa chặt chẽ. Công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành Chương trình chưa lường hết các khó khăn, vướng mắc, thiếu giải pháp khả thi để thực hiện Chương trình hiệu quả.

Một số địa phương còn tư tưởng trông chờ sự hỗ trợ từ ngân sách cấp trên; chưa thực hiện nghiêm chỉ đạo, hướng dẫn của thành phố việc đầu tư xây dựng công trình, dẫn đến đầu tư vượt nhu cầu và khả năng cân đối nguồn lực của địa phương gây lãng phí đầu tư, phát sinh nợ xây dựng cơ bản. Việc công khai, dân chủ còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới, nhất là công tác giám sát của nhân dân.

Thiếu nhân lực trong đội ngũ chuyên trách làm công tác xây dựng nông thôn mới. Cán bộ cơ sở còn hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Một số địa phương mới quan tâm đến công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến đầu tư phát triển sản xuất nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân.

Các xã tập trung cao phát triển cơ sở hạ tầng, các nội dung về phát triển sản xuất còn hạn chế: Hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thủy sản chưa cao, hình thức tổ chức sản xuất còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng nhu cầu để nâng cao thu nhập cho người dân. Mức đầu tư cho mở rộng vùng sản xuất tập trung nông sản hàng hóa còn thấp; việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn hạn chế, chưa tạo ra năng suất, chất lượng cao; việc duy trì và nhân rộng các kết quả triển khai của các mô hình ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ cao phục vụ sản xuất nông nghiệp, thủy sản chậm được các cấp, các ngành, địa phương chú trọng. Ngành nghề truyền thống, làng nghề chưa được quan tâm khôi phục và hỗ trợ phát triển.

Công tác hỗ trợ đổi mới hình thức tổ chức sản xuất còn chưa được chú trọng, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là quy mô hộ gia đình, việc áp dụng tiến bộ khoa học còn hạn chế, chưa phát triển sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng quy mô, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, giá trị gia tăng và hiệu quả thấp. Việc hỗ trợ để phát huy lợi thế từng địa phương đối với các sản phẩm chủ lực chưa được chú trọng. Chậm ban hành cơ chế, chính sách đủ mạnh thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tạo động lực để cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ, chậm đầu tư phát triển hạ tầng hình thành các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn một số huyện. Chưa có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Công tác tổ chức thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nông thôn chưa đồng bộ. Đầu tư xây dựng các khu xử lý rác thải tập trung cấp huyện còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí đầu tư cũng như mặt bằng; chưa có giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ cao để xử lý rác thải nông thôn theo hướng xã hội hóa. Hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt chưa được chú trọng đầu tư. Nghĩa trang nhân dân được bố trí theo tập quán truyền thống, mang tính tự phát, thiếu tập trung.

Đại Vũ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét